Rối loạn sắc tố da bẩm sinh xảy ra khi tế bào sắc tố trên da bị biến đổi, rối loạn tại chỗ. Rối loạn sắc tố là tình trạng lành tính tuy nhiên nó sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến tính thẩm mỹ. Vì vậy, trẻ bị rối loạn sắc tố da bẩm sinh rất cần sự động viên của cha mẹ, người thân trong gia đình để trẻ không tự ti, ngại giao tiếp với những người xung quanh.
Bạn đang đọc: Những điều cần biết về hiện tượng rối loạn sắc tố da bẩm sinh
Làn da của người khỏe mạnh trông hoàn toàn bình thường, trong khi những người bị rối loạn sắc tố da bẩm sinh sẽ có màu tối hơn hoặc sáng hơn (tăng/giảm sắc tố da) một cách bất thường, có thể nhìn thấy ngay được. Do đó, việc hiểu rõ về bệnh lý rối loạn sắc tố da bẩm sinh là rất quan trọng để tìm ra hướng điều trị phù hợp.
Contents
Rối loạn sắc tố da bẩm sinh là gì?
Da chúng ta có nhiều tông màu khác nhau, mỗi người một màu sắc riêng chính là do sự tương tác phức tạp của hai loại melanin có vai trò xác định màu da, bao gồm eumelanin màu nâu đen và pheomelanin màu vàng đỏ.
Các sắc tố bào melanocytes sẽ sản xuất melanin. Sắc tố này rất quan trọng đối với da, tóc và màu mắt, được tạo ra bên trong các bào quan chuyên biệt gọi là melanosome. Những melanosome này sau đó sẽ di chuyển đến các tế bào sừng, tạo nên các sắc thái đa dạng cho làn da của chúng ta. Sự khác biệt về kích thước, số lượng và cách sắp xếp của các melanosome trong melanocytes và keratinocytes góp phần tạo nên sự phong phú về chủng tộc loài người (sắc tộc, màu da).
Rối loạn sắc tố da bẩm sinh phát sinh từ những thay đổi cục bộ trong tế bào sắc tố da. Những thay đổi này có thể là do đột biến làm gián đoạn quá trình phát triển, di chuyển và hoạt động của tiền chất tế bào hắc tố.
Tế bào hắc tố, có nguồn gốc từ tế bào mào thần kinh, giữ vai trò tạo nên những màu sắc da xác định của chúng ta. Khi các đột biến cản trở sự biệt hóa và di chuyển của chúng, các rối loạn sắc tố da bẩm sinh sẽ xuất hiện.
Các loại rối loạn sắc tố da bẩm sinh
Chứng rối loạn sắc tố da bẩm sinh có nhiều loại, tuy nhiên thông thường sẽ phân làm hai loại chính bao gồm tăng sắc tố da bẩm sinh và giảm sắc tố da bẩm sinh.
Tăng sắc tố da bẩm sinh
Tăng sắc tố bẩm sinh tuy lành tính nhưng có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự tự tin lẫn tính thẩm mỹ của một người. Tình trạng này bắt nguồn từ những bất thường của các tế bào sắc tố xuất hiện lạc chỗ ở thời kỳ phôi thai. Tăng sắc tố da bẩm sinh gồm có nhiều loại sau đây:
Bớt xanh (Nevus of Ota)
Bớt xanh là hiện tượng rối loạn sắc tố da bẩm sinh ở dạng tăng sắc tố, chủ yếu xuất hiện ở vùng mặt (một bên hoặc hai bên mặt). Loại tăng sắc tố da bẩm sinh này lành tính, thường có màu nâu/nâu đen/xanh đen, không tăng sinh lông cũng như không cao hơn bề mặt da lành.
Bớt xanh chiếm tỷ lệ khoảng 0,2 – 0,6% rối loạn sắc tố da bẩm sinh và thường xảy ra ở nữ giới nhiều hơn. Bệnh được phân thành 5 mức độ tổn thương khác nhau dựa trên độ sâu phân bố ở các tầng cấu trúc da.
Bớt nâu (Cafe au laite)
Tương tự bớt xanh, bớt nâu là một dạng rối loạn tăng sắc tố da bẩm sinh xảy ra ở vùng mặt (thông thường ở má và thái dương). Các vết bớt màu nâu này có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất, thường xuyên tái phát.
Hiện nay y học vẫn chưa xác định rõ ràng căn nguyên gây ra bớt nâu. Mặc dù các phương pháp điều trị hiện nay vẫn còn hạn chế song người bị bớt nâu có thể thực hiện điều trị bằng laser để cải thiện màu sắc vùng da tổn thương.
Tìm hiểu thêm: Trẻ bị ngã đập đầu xuống đất bị nôn: Nguyên nhân và xử trí
Bớt xanh mông cổ
Khác với hai dạng bớt xanh và nâu trên, bớt xanh mông cổ chủ yếu gặp ở vùng lưng, mông, đùi hoặc thân hơn là vùng mặt. Những đốm phẳng màu xanh lam/xanh xám này thường có hình dạng bất thường, khi mới sinh đã xuất hiện hoặc ngay sau đó. Bớt xanh mông cổ lành tính và sẽ dần biến mất khi trẻ lớn lên. Trẻ em châu Á, hay những trẻ có làn da tự nhiên sẫm màu thường gặp loại bớt này.
Giảm sắc tố bẩm sinh
Loại bớt giảm sắc tố bẩm sinh (achromic naevus hoặc naevus depigmentosus) được đặc trưng bởi những vùng da màu trắng nhạt kích thước khoảng từ vài centimet trở lên, có ranh giới rõ ràng với vùng da bình thường.
Bớt giảm sắc tố bẩm sinh hiện diện ngay từ lúc mới sinh, theo thời gian càng rõ dần và ổn định. Vị trí bớt giảm sắc tố chủ yếu có ở thân mình, đôi khi có thể xuất hiện ở các vị trí khác trên cơ thể. Dạng rối loạn sắc tố da bẩm sinh này có liên quan đến đột biến khảm ở da khiến dòng tế bào sắc tố thay đổi, dẫn đến giảm sản xuất melanin, giảm số lượng tế bào sắc tố hoặc rối loạn sự vận chuyển các túi sắc tố tới tế bào sừng.
Dựa trên kiểu phân bố, bớt giảm sắc tố bẩm sinh chia thành ba thể như sau:
- Bớt giảm sắc tố đơn độc;
- Bớt giảm sắc tố phân đoạn;
- Bớt giảm sắc tố thành dải.
Điều trị da bị rối loạn sắc tố như thế nào?
Rối loạn sắc tố da bẩm sinh có nhiều mức độ khác nhau, bao gồm cả lành tính lẫn ác tính. Khi nghi ngờ bệnh ác tính, việc chẩn đoán và điều trị sớm là điều rất quan trọng. Bác sĩ có thể chỉ định làm sinh thiết để có thể chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh.
Tuy nhiên, dù lành tính hay ác tính thì rối loạn sắc tố da bẩm sinh cũng gây ảnh hưởng đến vẻ ngoài của trẻ, đặc biệt là tình trạng rối loạn xảy ra ở những vùng nổi bật như khuôn mặt. Hầu hết người bị rối loạn sắc tố da bẩm sinh đều mong muốn nhanh chóng tìm cách loại bỏ tình trạng rối loạn sắc tố da vì lý do thẩm mỹ.
Hiện tại, có nhiều phương pháp điều trị tiên tiến giúp cải thiện đáng kể tình trạng rối loạn sắc tố da bẩm sinh, bao gồm laser, loại bỏ tổn thương bằng phẫu thuật, lột da bằng hóa chất và chất tẩy trắng có chứa hydroquinone. Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm riêng, bệnh nhân có thể cân nhắc để lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp.
>>>>>Xem thêm: Khi bị mắc viêm mũi phù nề điều trị như thế nào?
Tuy nhiên, theo cảnh báo của bác sĩ chuyên khoa, một số phương pháp điều trị tuy hiệu quả nhưng có thể dẫn đến sẹo. Do đó, người bị rối loạn sắc tố da bẩm sinh cần tìm hiểu và cân nhắc kỹ trước khi chọn bất kỳ phương pháp nào.
Tóm lại, rối loạn sắc tố da bẩm sinh là tình trạng không hiếm gặp, xảy ra khi tế bào sắc tố trên da bị biến đổi, rối loạn tại chỗ. Trẻ bị rối loạn sắc tố da bẩm sinh chắc chắn sẽ cảm thấy nhút nhát và tự ti, ảnh hưởng đến quan hệ xã hội của chúng. Trong những trường hợp như vậy, sự quan tâm động viên của cha mẹ là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, cha mẹ có thể giải thích kỹ hơn về tình trạng này để trẻ hiểu và không cảm thấy xấu hổ. Đồng thời tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa để tìm hướng điều trị thích hợp với trường hợp cụ thể của trẻ.