Nghiệm pháp rượu trong bệnh lý đông máu rải rác nội mạch

Nghiệm pháp rượu không phải là một phương pháp điều trị trực tiếp cho bệnh lý đông máu rải rác nội mạch. Thực tế, nó là một phương pháp đánh giá hoặc xác định tình trạng đông máu rải rác trong cơ thể.

Bạn đang đọc: Nghiệm pháp rượu trong bệnh lý đông máu rải rác nội mạch

Nghiệm pháp rượu thường được sử dụng để chẩn đoán hội chứng đông máu rải rác nội mạch. Quá trình này không phải là liệu pháp hoặc biện pháp điều trị trực tiếp, mà nó được thực hiện để xác định có hay không sự hoạt động đông máu quá mức trong cơ thể.

Nghiệm pháp rượu là gì?

Quá trình biến đổi fibrinogen thành fibrin là một trong những giai đoạn trong cơ chế đông máu. Nó khởi đầu bằng việc fibrinogen, ban đầu là dạng monomer, trải qua quá trình polymer hóa tạo thành sợi fibrin, nhưng vẫn còn tồn tại một lượng nhỏ fibrinogen không polymer hóa. Những phân tử này kết hợp với fibrinogen và protein được gọi là PDF, tạo thành một phức hợp hóa học. Phức hợp này làm cho huyết tương biến đổi từ trạng thái lỏng thành gel, điều này diễn ra trong môi trường chứa rượu ở nhiệt độ thấp.

Nghiệm pháp rượu trong bệnh lý đông máu rải rác nội mạch

Nghiệm pháp rượu được tiến hành bằng cách đặt huyết tương trong rượu tại nhiệt độ 4°C

Qua nguyên lý này, nghiệm pháp rượu thường được tiến hành bằng cách đặt huyết tương trong rượu tại nhiệt độ 4°C và theo dõi quá trình gel hóa. Điều này giúp mô phỏng quá trình đông máu trong điều kiện kiểm soát được, giúp nhìn rõ hiện tượng biến đổi từ trạng thái lỏng sang gel của huyết tương.

Tuy nhiên, việc thực hiện thí nghiệm này không liên quan trực tiếp đến quá trình đông máu trong cơ thể. Thực tế, quá trình này chỉ là một mô hình đơn giản để hiểu rõ hơn về cơ chế chuyển đổi của huyết tương dưới tác động của rượu và nhiệt độ. Đây không phải là phương pháp chẩn đoán hoặc can thiệp y khoa, mà chỉ là một trong những cách tiếp cận trong nghiên cứu về quá trình đông máu.

Khi nào cần thực hiện nghiệm pháp rượu?

Xét nghiệm nghiệm pháp rượu thường được tiến hành trong trường hợp bệnh nhân có những dấu hiệu bất thường gợi ý về việc hệ thống đông máu trong cơ thể hoạt động quá mức, đặc biệt là khi nghi ngờ về tình trạng đông máu rải rác nội mạch (DIC).

Đông máu rải rác nội mạch (DIC) là một bệnh lý phát sinh khi có sự hình thành quá nhiều cục máu trong các mạch máu nhỏ, đi kèm với việc chuyển đổi fibrinogen thành fibrin trong quá trình tuần hoàn máu. Đây là một trạng thái đông máu do tiêu hao, khi các yếu tố đông máu được sử dụng quá mức để hình thành thrombin và fibrin. Mặc dù có xuất hiện biểu hiện chảy máu trong thực tế lâm sàng, nhưng đồng thời, cũng quan sát thấy biểu hiện của trạng thái đông máu. Điều này chỉ ra có cả hai trạng thái xảy ra song song: Tình trạng chảy máu và tình trạng đông máu.

Tìm hiểu thêm: Người già ăn cơm hay bị nghẹn là bệnh gì?

Nghiệm pháp rượu trong bệnh lý đông máu rải rác nội mạch
Nghiệm pháp rượu nhằm đánh giá hệ thống đông máu

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch, bao gồm:

  • Sản khoa: Viêm bể thận do thai nghén, chửa trứng, thai chết lưu, sản giật, nhiễm độc thai nghén, nghẽn mạch do nước ối, và các vấn đề khác liên quan đến quá trình sinh sản.
  • Ngoại khoa: Sốc do chảy máu, chấn thương, bỏng nặng, phẫu thuật tim mạch, phổi, lồng ngực, và các tác động bên ngoài cơ thể.
  • Nội khoa: Nhiễm khuẩn nặng, nhiễm khuẩn huyết, rắn độc cắn, viêm tụy cấp, xơ gan, suy gan cấp, bệnh leukemia, và các vấn đề liên quan đến cơ thể bên trong.

Các triệu chứng của hội chứng đông máu rải rác thường biểu hiện qua sự xuất huyết và những dấu hiệu khác như:

  • Ban xuất huyết và bầm máu toàn thân: Xuất hiện các vết bầm máu, chảy máu từ các vị trí chọc tĩnh mạch ngoại vi, catheter tĩnh mạch trung tâm, vết thương, và có rỉ máu từ lợi là những biểu hiện thường gặp.
  • Chảy máu đường tiêu hóa và tiết niệu: Đổi màu ngón tay, chân, và tai do huyết khối trong mạch máu.
  • Hậu quả của huyết khối các mạch cấp máu cho da: Dẫn đến vùng bầm máu lớn, ranh giới rõ ràng có thể được thấy.

Để chẩn đoán hội chứng này, cần thực hiện một số xét nghiệm, bao gồm:

  • Tỷ lệ Prothrombin (PT).
  • Thời gian thrombin.
  • Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (APTT).
  • Định lượng fibrinogen.
  • Đếm số lượng tiểu cầu.
  • Định lượng D-Dimer, FDP.
  • Nghiệm pháp tiêu Euglobulin.
  • Protamin sulphat.
  • Định lượng yếu tố đông máu: V, VIII.
  • Antithrombin III.

Nghiệm pháp rượu thực hiện như thế nào?

Nghiệm pháp rượu được thực hiện như sau:

Chuẩn bị

  • Lấy 2ml máu toàn phần và đưa vào ống chống đông citrat 3.2% hoặc 3.8%.
  • Chuẩn bị dung dịch ethanol 50%.
  • Sử dụng ống nghiệm trắng có nắp.
  • Chuẩn bị giấy parafin.

Thực hiện

  • Tiến hành ly tâm nhẹ hoặc đợi máu tự lắng để thu huyết tương giàu tiểu cầu.
  • Chuyển 450ml huyết tương cần kiểm tra vào ống nghiệm.
  • Thêm 150ml dung dịch ethanol 50% vào ống nghiệm.
  • Phủ kín nắp, sau đó đặt ở nhiệt độ 4°C trong 10 phút.

Khi xuất hiện hiện tượng gel hóa, nghiệm pháp rượu được coi là dương tính (+); nếu không có hiện tượng gel hóa, nghiệm pháp được xem là âm tính (-). Kết quả dương tính của nghiệm pháp rượu cho thấy sự chuyển đổi fibrinogen thành fibrin, đồng nghĩa với việc có sự đông máu diễn ra trong cơ thể. Do đó, phương pháp này được áp dụng để chẩn đoán tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch.

Nghiệm pháp rượu có ý nghĩa gì?

Nghiệm pháp này nhằm phát hiện tình trạng hoạt động quá mức của hệ thống đông máu. Quá trình này đánh giá việc có sự hình thành phức hợp giữa monomer fibrin hòa tan với fibrinogen và sản phẩm phân giải fibrin.

Nghiệm pháp rượu trong bệnh lý đông máu rải rác nội mạch

>>>>>Xem thêm: Hiểu rõ về tình trạng tim đập nhanh hồi hộp

Tình trạng hoạt động quá mức của hệ thống đông máu

Trong trường hợp đông máu rải rác, các chỉ số thường thấy bất thường như tỷ lệ prothrombin giảm (PT kéo dài), thời gian tự huyết hóa thrombin và APTT kéo dài (đối với hội chứng đông máu rải rác cấp). Nghiệm pháp tiêu Euglobulin sẽ cho kết quả dương tính nếu có tiểu sợi huyết, cùng với nghiệm pháp rượu hoặc Protamin sulphat cũng sẽ cho kết quả dương tính. Đồng thời, việc định lượng các yếu tố đông máu thường thấy giảm, cùng với việc định lượng Antithrombin III cũng giảm.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *