Hội chứng sợ bệnh viện là một loại rối loạn lo âu ám ảnh sợ hãi thường gặp. Đây là một hội chứng ảnh hưởng đến mọi giới tính và độ tuổi, với các biểu hiện thường xuất hiện ở giai đoạn thời thơ ấu hoặc ngay sau các sự kiện chấn thương tâm lý liên quan đến bệnh viện.
Bạn đang đọc: Hội chứng sợ bệnh viện (Nosocomephobia) là gì? Biểu hiện và chuẩn đoán
Hội chứng sợ bệnh viện biểu hiện qua các triệu chứng như sợ hãi, lo lắng cực độ khi nghĩ đến việc phải đến bệnh viện, tâm trạng mất kiểm soát, đôi khi đi kèm với tình trạng hoảng loạn. Để vượt qua hội chứng này và tránh ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc sức khỏe sau này, người bệnh cần được chăm sóc tâm lý và sử dụng các giải pháp bổ trợ thích hợp.
Contents
Hội chứng sợ bệnh viện là gì?
Hội chứng sợ bệnh viện còn được biết đến với tên gọi tiếng Anh là Nosocomephobia, xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, ghép từ “nosokomeion” có nghĩa là “bệnh viện” và “phobos” có nghĩa là “nỗi sợ hãi”. Thuật ngữ này mô tả sự sợ hãi vô lý của người bệnh đối với bệnh viện, có thể là trong suy nghĩ hoặc khi phải đối mặt với thực tế.
Hội chứng này tạo ra nhiều tác động tiêu cực đối với cả thể chất và tinh thần, khiến người bệnh từ chối các biện pháp chăm sóc y tế cần thiết. Nỗi sợ và ám ảnh mà những người mắc hội chứng này phải trải qua đôi khi đến mức họ cảm thấy không thể sống khi ở trong môi trường bệnh viện.
Có thông tin cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon có thể cũng là một trong những người mắc hội chứng sợ bệnh viện. Thông thường, những người mắc hội chứng này có thể phát hiện các hội chứng khác nhau như Hemophobia (sợ máu), Iatrophobia (sợ bác sĩ), Mysophobia (hội chứng sợ bẩn, sợ vi trùng), và Trypanophobia (hội chứng sợ kim tiêm).
Hình ảnh liên quan đến bệnh viện thường kèm theo các yếu tố như bệnh tật, đau đớn, máu chảy, cái chết và chi phí điều trị lớn. Do đó, hầu hết mọi người đều có nỗi sợ cụ thể khi phải đối mặt với bệnh viện, đặc biệt là phòng cấp cứu. Điều này xuất phát từ sự đối mặt với bệnh tật và cái chết của chính bản thân hoặc của những người xung quanh.
Mặc dù người ta có thể vượt qua nỗi sợ này một cách dễ dàng bằng cách nhận ra rằng việc đến bệnh viện là cần thiết để chữa trị, nhưng với những người mắc hội chứng sợ bệnh viện, nỗi sợ và ám ảnh chiếm hữu lý trí và ý thức của họ. Họ có thể từ chối sự chăm sóc y tế ngay cả khi đang đối mặt với những tình huống cấp cứu.
Hậu quả của việc này có thể dẫn đến tình trạng tàn phế hoặc tử vong do không được chăm sóc y tế, hoặc không xử lý vết thương kịp thời. Mặc dù nhiều người mắc hội chứng này hiểu rằng nỗi sợ hãi của họ là vô lý, bệnh viện không đe dọa đến tính mạng và an toàn của họ, họ vẫn không thể kiểm soát được cảm giác kinh hoàng.
Đại dịch Covid-19 được xem là một điểm mốc làm tăng số lượng người mắc hội chứng sợ bệnh viện. Bệnh viện trở thành một ổ dịch thực sự, với tỷ lệ lây nhiễm cao và số người chết tăng lên mỗi ngày. Việc cập nhật liên tục về số người chết và sự lo lắng của cộng đồng làm cho bệnh viện trở thành một nơi “kinh hoàng” theo đúng nghĩa đen.
Điều này khiến nhiều người cảm thấy hoảng loạn và ám ảnh khi nghĩ đến bệnh viện, đặc biệt là những người đã mất người thân trong đại dịch. Nỗi ám ảnh này có thể phát triển thành hội chứng sợ bệnh viện với nhiều cấp độ khác nhau, tạo ra những tác động nghiêm trọng đến sức khỏe tâm lý và thể chất của người bệnh.
Biểu hiện của hội chứng sợ bệnh viện
Các triệu chứng của hội chứng sợ bệnh viện có sự tương đồng với những dấu hiệu của các rối loạn lo âu ám ảnh sợ hãi khác. Những biểu hiện này có thể biến đổi từ nhẹ đến nặng tùy thuộc vào mức độ ám ảnh của người bệnh đối với bệnh viện. Các biểu hiện đặc trưng bao gồm:
- Buồn nôn;
- Đau đầu, chóng mặt;
- Khó thở;
- Nhịp tim nhanh;
- Thở gấp và nhịp thở ngắn;
- Tức ngực;
- Khô miệng;
- Căng cơ;
- Đổ mồ hôi lạnh hoặc mồ hôi quá nhiều;
- Hoảng loạn và lo lắng cực độ khi phải đến hoặc nghĩ về bệnh viện;
- Từ chối đến bệnh viện trong mọi tình huống, thậm chí khi cần chữa trị hoặc cấp cứu;
- Cảm giác không thể sống sót nếu rời khỏi bệnh viện;
- Mất kết nối với thực tế và cảm giác mất trí nổi điên;
- Nỗ lực bỏ trốn khỏi bệnh viện nhanh chóng;
- Hoảng loạn và run rẩy tay chân;
- Ác mộng thường xuyên liên quan đến bệnh viện;
- La hét và mất kiểm soát cảm xúc;
- Nguy cơ ngất xỉu do hoảng loạn.
Tìm hiểu thêm: Những tác dụng phụ của thuốc gây mê thường gặp
Có thể xuất hiện những dấu hiệu khác ngoài những biểu hiện trên, tuy nhiên, đại khái, biểu hiện của hội chứng sợ bệnh viện là những phản ứng bất thường, mạnh mẽ cả về thể chất và tinh thần đối với bệnh viện. Để đạt được sự chẩn đoán chính xác về việc có mắc hội chứng Nosocomephobia hay không, việc tham khảo ý kiến của bác sĩ là cần thiết.
Chẩn đoán hội chứng sợ bệnh viện
Việc chẩn đoán hội chứng sợ bệnh viện cần sự can thiệp của các bác sĩ chuyên nghiệp có bằng cấp. Bác sĩ sẽ dựa vào các biểu hiện lâm sàng, tiền sử gia đình, sự kiện quá khứ và loại trừ một số yếu tố khác để đưa ra chẩn đoán cuối cùng. Một số tiêu chí sử dụng để đặt chẩn đoán bao gồm:
- Nỗi sợ gây ra cảm giác lo lắng, căng thẳng và đau khổ tột cùng ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày.
- Triệu chứng xảy ra liên tục khi người bệnh ở gần bệnh viện và mỗi khi nghĩ về bệnh viện.
- Triệu chứng kéo dài ít nhất 6 tháng và không có dấu hiệu giảm đi.
- Nỗi sợ hãi là phi lý, không tương xứng với bất kỳ mối nguy hiểm nào tồn tại tại bệnh viện.
- Tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống.
- Cảm giác đau khổ khiến người bệnh từ chối mọi yêu cầu trợ giúp y tế, từ chối khám chữa bệnh, thử máu, xét nghiệm và các quá trình y tế khác.
>>>>>Xem thêm: Chăm sóc trẻ sinh đôi như thế nào?
Dù triệu chứng sợ bệnh viện có thể nặng hay nhẹ, người bệnh cần được chăm sóc bởi các phương pháp điều trị tâm lý để loại bỏ nỗi sợ phi lý này. Các triệu chứng có thể trở nên nghiêm trọng hơn theo thời gian và có thể ngăn cản người bệnh tìm kiếm sự giúp đỡ y tế khi cần thiết. Do đó, quan trọng là người bệnh tiếp nhận điều trị để vượt qua hội chứng sợ bệnh viện này.
Hội chứng sợ bệnh viện có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai và đây là một dạng rối loạn lo âu ám ảnh sợ hãi mà nhiều người phải đối mặt. Tuy nhiên, triệu chứng của bệnh này có thể bị nhầm lẫn với các biểu hiện tâm lý thông thường khác, điều này có thể làm cho tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn theo thời gian. Vì vậy, quan trọng là tự chủ động đến gặp bác sĩ tâm lý để nhận được sự hỗ trợ sớm và bảo vệ sức khỏe toàn diện.