Những người từng nhiễm vi rút bại liệt trước đây bị ảnh hưởng nặng nề về sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Một trong số những vấn đề nghiêm trọng mà người bệnh phải đối mặt sau nhiều năm nhiễm vi rút là hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt.
Bạn đang đọc: Hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt là gì? Có nguy hiểm không?
Vi rút bại liệt gây bệnh bại liệt hay bệnh viêm tủy xám. Bệnh có thể gây ra những hậu quả khác nhau từ nhẹ đến nặng mà nghiêm trọng nhất là rối loạn chức năng tâm thần và bị liệt phần dưới cơ thể. Sau nhiều năm nhiễm vi rút, người bệnh có thể quen với tình trạng tồi tệ mà họ phải trải qua. Tuy nhiên, không ít trong số đó lại phải đối mặt với hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt – một hội chứng xuất hiện khá muộn kể từ sau khi người bệnh nhiễm vi rút.
Contents
Bệnh bại liệt và hội chứng sau bại liệt là gì?
Virus bại liệt có tên là Polio (Poliovirus) là một virus thuộc họ đường ruột. Chủng virus này lây lan từ người sang người qua đường tiêu hóa. Khi xâm nhập vào cơ thể, virus bại liệt di chuyển đến hạch bạch huyết và xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương. Tại đây, chúng gây tổn thương các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào vận động của vỏ não gây bệnh bại liệt.
Bệnh bại liệt đã được kiểm soát rất tốt nhờ sự ra đời của vắc xin phòng bệnh. Hiện nay, các quốc gia châu Phi là những nước có tỷ lệ người mắc bệnh nhiều nhất. Theo thời gian, một số bệnh nhân bại liệt trước đây đã dần quen với cuộc sống mới và quen với việc sống chung những di chứng mà căn bệnh này để lại. Tuy nhiên, có những người sau 10 – 20 năm mắc bệnh phải hứng chịu một biến chứng của bệnh bại liệt chính là hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt hay hội chứng sau viêm tủy xám.
Hội chứng này được xác định là bệnh lý thần kinh có thể xuất hiện trong khoảng 10 – 50 năm sau khi nhiễm virus bại liệt. Hội chứng được đặc trưng bởi tình trạng suy yếu cơ bắp và dây thần kinh, đau cơ, đau khớp thậm chí dẫn đến liệt hoàn toàn. Hội chứng sau mắc bệnh bại liệt chỉ xuất hiện ở những người từng bị bại liệt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ sẽ bị bại liệt thêm một lần nữa. Theo thống kê, có khoảng 25 – 40% bệnh nhân từng mắc bại liệt sau này mắc hội chứng sau bệnh bại liệt.
Hội chứng sau bại liệt gây ra do đâu?
Hiện nay, các nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu về nguyên nhân gây hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt. Có nhiều giả thuyết được đặt ra, trong đó đã có những giả thuyết được công nhận, có những giả thuyết với bằng chứng chưa chắc chắn. Cụ thể là:
- Giới chuyên môn cho rằng hội chứng sau bại liệt xuất phát từ những “tàn dư” của bệnh bại liệt. Các dây thần kinh vốn đã bị tổn thương bởi virus bại liệt sẽ ngày càng yếu đi và làm các cơ bắp yếu đi. Điều này càng trở nên trầm trọng khi kết hợp cùng với sự lão hóa của cơ thể.
- Một nguyên nhân khác cho rằng những người từng bị ảnh hưởng bởi bệnh bại liệt sau khi hồi phục quá lạm dụng sức khỏe. Cơ bắp không được nghỉ ngơi đủ sẽ ngày càng suy yếu.
- Cũng có những giả thuyết cho rằng hội chứng sau bệnh bại liệt có thể xuất phát từ suy giảm chức năng của hệ thống miễn dịch.
Ai có nguy cơ mắc hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt?
Theo các bác sĩ, những đối tượng sau có nguy cơ mắc mắc hội chứng sau bệnh bại liệt:
- Bệnh nhân bại liệt trước đây từng bị nhiễm trùng nghiêm trọng. Khi bị bại liệt nếu triệu chứng bệnh càng nặng thì nguy cơ mắc hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt càng cao.
- Những bệnh nhân mắc bại liệt thời còn trẻ hoặc khi lớn tuổi nguy cơ mắc hội chứng này cao hơn trẻ em.
- Các nghiên cứu cho thấy những người phục hồi sau bại liệt cấp tính nhanh sẽ có nguy cơ mắc hội chứng sau bệnh bại liệt cao hơn vì chính sự phục hồi quá nhanh cũng tăng áp lực lên các tế bào thần kinh vận động.
- Những người làm việc, tập luyện quá sức, thường xuyên bị mệt mỏi cũng có nguy cơ cao mắc hội chứng này.
Tìm hiểu thêm: Kết quả xét nghiệm viêm gan B nói lên điều gì? Ý nghĩa của 5 loại chỉ số viêm gan B
Hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt biểu hiện thế nào?
Hội chứng sau bệnh bại liệt xuất hiện cùng những triệu chứng điển hình như:
- Các cơ khớp bị đau, bị yếu và xu hướng ngày càng nghiêm trọng.
- Người bệnh mệt mỏi, kiệt sức dù chỉ làm những việc rất nhẹ nhàng.
- Các cơ bắp có dấu hiệu bị teo.
- Người bệnh gặp phải các triệu chứng khó nuốt, khó thở.
- Một số triệu chứng rối loạn thở liên quan đến giấc ngủ cũng xuất hiện, như chứng ngưng thở khi ngủ.
- Người mắc hội chứng này cũng giảm khả năng chịu lạnh.
Với các triệu chứng trên, hội chứng sau bệnh bại liệt ít khi đe dọa tính mạng người bệnh. Nhưng chứng teo cơ, yếu cơ kiêm trọng có thể để lại nhiều hậu quả nặng nề như:
- Cơ chân yếu khiến người bệnh gặp khó khăn trong giữ thăng bằng và đi lại. Họ dễ bị té ngã dẫn đến gãy xương, chấn thương.
- Vì khó nhau nuốt nên người bệnh cũng dễ bị suy dinh dưỡng, mất nước hoặc nếu không may hít thức ăn vào phổi họ có thể bị viêm phổi hít.
- Người bệnh cũng phải đối mặt với nguy cơ bị suy hô hấp cấp tính do cơ ngực và cơ hoành yếu khiến bệnh nhân dễ bị tích tụ dịch và chất nhầy trong phổi hơn.
- Mật độ xương bị giảm và người bệnh có nguy cơ bị biến chứng loãng xương, xương giòn dễ gãy.
>>>>>Xem thêm: Tiêm chủng mở rộng là gì? Tiêm chủng mở rộng có bắt buộc không?
Điều trị hội chứng nhiễm vi rút sau bại liệt
Áp dụng các phương pháp điều trị phù hợp và kịp thời có thể giúp người bệnh kiểm soát tốt các triệu chứng của hội chứng sau bệnh bại liệt. Ngoài việc duy trì chế độ dinh dưỡng hợp lý, nghỉ ngơi điều độ, vận động vừa sức, người bệnh sẽ được:
- Vật lý trị liệu để cải thiện chức năng cơ bắp, xương khớp.
- Trị liệu ngôn ngữ để khắc phục các vấn đề về phát âm và cải thiện chứng khó nói.
- Sử dụng các thiết bị hỗ trợ thở khi ngủ để phòng ngừa chứng ngưng thở khi ngủ.
- Sử dụng các thiết bị hỗ trợ như nạng, xe lăn,… để giúp người bệnh tiết kiệm sức lực.
- Sử dụng các loại thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ để giảm triệu chứng đau hay co cơ,…
Hội chứng sau nhiễm vi rút bại liệt không thể chữa khỏi hoàn toàn. Nhưng người bệnh có thể phòng ngừa và giảm nguy cơ mắc hội chứng bằng cách tăng cường nghỉ ngơi, hạn chế vận động quá sức, xây dựng chế độ dinh dưỡng và lối sống khoa học. Với những người khỏe mạnh, việc tiêm vắc xin bại liệt để phòng bệnh là việc vô cùng cần thiết.